Tin Game

Huyền thoại về cấu trúc nghĩa của từ – GS.TS Nguyễn Đức Tồn (Phần 1)

Khi đến ngày Tết Canh Dần, mọi người đang vội vàng chuẩn bị cho Tết, nhưng GS Nguyễn Đức Tồn lại say mê với “huyền thoại về cấu trúc nghĩa của từ”. Vì bài viết quá dài, BBT sẽ chia thành 3 phần. Dưới đây là phần đầu tiên.

Năm 1992, trong số 1 của tạp chí Ngôn ngữ, Gíao sư V.M.Solncev – Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học CH Liên bang Nga, nguyên Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô, đã đề cập đến 4 huyền thoại ngôn ngữ học: 1) “Ngôn ngữ truyền đạt ý nghĩ”; 2) “Ngôn ngữ phản ánh thế giới bên ngoài”; 3) “Ngôn ngữ cấu trúc thế giới bên ngoài cho người sử dụng ngôn ngữ”; 4) “Âm thanh trong ngôn ngữ là hình thức, còn ý nghĩa là nội dung”. Gíao sư V.M Solncev đã viết:”Trong ngôn ngữ học, trong các luận thuyết được phổ biến rộng rãi trong đời sống khoa học, có những điều khẳng định mặc dầu được xem là quá rõ ràng nhưng thực tế là không phù hợp với hiện thực ngôn ngữ học. Xem xét kĩ những điều khẳng định đó thì thấy đó là những điều nguỵ tạo, giải thích không đúng đắn kiến trúc hoặc đặc tính của ngôn ngữ. Thế nhưng người ta lại tin vào chúng như là chân lí vô điều kiện và không cần phải kiểm nghiệm” và “Sự cảm nhận như thế đối với những điều khẳng định này rất giống với cái gọi là sự cảm nhận huyền thoại (một sự cảm nhận xuyên tạc không có kiểm nghiệm mà chỉ dựa vào đức tin) đối với các sự kiện hay là các hiện tượng khác nhau của hiện thực. Do đó mà có thể gọi những điều khẳng định này là các huyền thoại ngôn ngữ học (chỗ nhấn mạnh là của GS V.M Solncev) [6, 14].

Bài HOT 👉  Cute Là Gì? Thế Nào Được Gọi Là Cute?

Trong bài viết này, chúng tôi lấy cảm hứng từ ông để giới thiệu thêm một huyền thoại liên quan đến quan điểm lí thuyết ngữ nghĩa học hiện đại phổ biến. Đó là huyền thoại về cấu trúc nghĩa của từ.

Theo ý nghĩa học hiện đại, từ được lập thành một cấu trúc, gồm nhiều nghĩa vị được kết hợp theo quy tắc, chi phối và quy định lẫn nhau. Theo U. Weinreich, phân tích nghĩa tổng quát thành các thành tố và xác lập quan hệ giữa chúng là động cơ chính của nghiên cứu ngữ nghĩa. Trong bài viết trên tạp chí Ngôn ngữ số 2 năm 1975, Hoàng Phê cho rằng quan hệ cấp bậc tồn tại giữa các nghĩa của từ, dù có hay không có thành phần tiền giả định. Quan hệ này là một loại quan hệ lôgic: nghĩa đứng trước là tiền đề cho nghĩa đứng sau, nghĩa đứng sau thuyết minh cho nghĩa đứng trước, và “phụ nghĩa” cho nghĩa đứng trước. Quan hệ này là một loại quan hệ tĩnh trong nội bộ nghĩa của từ. Ngoài ra, còn có quan hệ động trong tổ hợp, quan hệ cấp bậc giữa các nghĩa khi từ tham gia một ngữ, về mặt giá trị thông báo, chức năng và hoạt động của các nghĩa. Hai loại quan hệ, trật tự và cấp bậc, không nhất thiết tương ứng, mà thường có mâu thuẫn.

Dựa trên việc phân tích ngữ nghĩa của các từ đại diện, giáo sư Hoàng Phê đã đưa ra kết luận rằng: “Nghĩa của từ, nói chung:.

Bài HOT 👉  15 Hào môn là gì? Giải thích chi tiết nhất nghĩa của từ mới nhất

A) là một tập hợp các thuộc tính có mối liên hệ quy định lẫn nhau.

B) Sự khác nhau về giá trị giữa các nét nghĩa (có mối quan hệ cấp bậc), được thể hiện qua khả năng tham gia khác nhau trong việc thực hiện chức năng thông báo.

C) Nét nghĩa có khả năng tự lập và tương tác với các nét nghĩa của từ khác khi kết hợp với nhau.

Cấu trúc của ý nghĩa từ là một cấu trúc chuyển động” [4,14].

Để làm rõ và chứng minh vấn đề này, ta cần bàn đến khái niệm cơ bản làm nền tảng cho mọi sự phân tích và bàn luận – nghĩa của từ. Điều này rõ ràng là một huyền thoại về cấu trúc nghĩa của từ.

Trong các sách về ngôn ngữ học hiện nay, có nhiều quan điểm và định nghĩa khác nhau về nghĩa của từ. Trong số hàng trăm định nghĩa đó, chúng có thể được chia thành hai loại chính.

Loại đầu tiên: bao gồm các định nghĩa cho rằng nghĩa của từ là một hình thái cụ thể (vật, khái niệm hoặc sự phản ánh, v.V.). Các định nghĩa này cho rằng nghĩa của từ là “một thực thể, hành động hoặc thuộc tính không thuộc thực tế khách quan mà từ biểu thị” (Nguyễn Văn Tu), “nghĩa của từ là một ý niệm” (P. A. Budagov), “nghĩa của từ là một sự phản ánh tự nhiên của vật, hiện tượng hoặc mối quan hệ trong ý thức…” (A. I. Smirnickij, Đỗ Hữu Châu), v.V…

Bài HOT 👉  M là gì? Ý nghĩa của "M" trong các lĩnh vực đời sống

Loại thứ hai: định nghĩa nêu rõ rằng nghĩa của từ ám chỉ một quan hệ đối tượng hoặc khái niệm. Ví dụ, “nghĩa là mối liên hệ giữa từ và thực thể hoặc sự việc mà từ biểu thị, cũng như mối liên hệ giữa sự kiện ngôn ngữ và sự kiện ngoài ngôn ngữ” (A. A. Reformatskij, I.S Barkhuđarôv, Nguyễn Thiện Giáp, v.V…). (Xem thêm chi tiết trong [1,119-125]).

Trong lĩnh vực ngôn ngữ học hiện đại, quan điểm về nghĩa của từ xem nghĩa là chính sự vật, hiện tượng, vv mà từ biểu thị đã bị phản bác (x. Nguyễn Thiện Giáp [1, 122-123]). P. H. Nowell – Smith đã chỉ ra: “Tuyên bố rằng từ có ý nghĩa không đồng nghĩa với việc nó biểu thị một cái gì đó, trong khi nói ý nghĩa là gì không phải nói nó (tức là ý nghĩa – người đọc hiểu) biểu thị cái gì” [22, 159]. L. Wittgenstein cũng cho rằng: “Gọi vật tương ứng với từ là ý nghĩa, nhưng cách sử dụng này của từ ý nghĩa xung đột với các quy tắc của ngôn ngữ. Điều này có nghĩa là việc nhầm lẫn giữa ý nghĩa của từ và thực thể được đặt tên; khi nói người này đã chết, chúng ta muốn nói rằng người đó đã qua đời chứ không phải ý nghĩa của từ đã qua đời” [18, 96]. Bên cạnh đó, trong ngôn ngữ có nhiều loại từ khác nhau và nghĩa của chúng cũng khác nhau. Định nghĩa về nghĩa của từ như đã được trình bày chỉ áp dụng cho các từ thực tế (chủ yếu là danh từ, động từ và tính từ, vv) có nghĩa cụ thể. Còn các từ khác như đại từ (này, kia, ấy, nọ, sao, vv), cảm từ (ôi, ái, ối, vv), các từ hư (và, nếu, tuy, với, vv) thì nghĩa của chúng không rơi vào các định nghĩa như vậy.

Bài HOT 👉  Hall of fame là gì? Tổng hợp 4 ý nghĩa thường dùng

Trong cuốn sách Những vấn đề dạy và học tiếng Việt trong nhà trường [9], chúng tôi đã trình bày quan điểm của mình về khái niệm nghĩa của từ. Theo chúng tôi, nghĩa của từ là một hiện tượng tâm lí, tinh thần, nghĩa của từ là cái xuất hiện (hay được gợi lên) trong trí óc mọi người khi nghe thấy (hoặc đọc) từ đó. [9,55-56]. Nghĩa của từ không thể nhìn thấy, nghe thấy, hay động chạm đến được bằng năm giác quan. Để hiểu và nhận biết được nghĩa của từ, mỗi người chỉ có thể tự cảm nhận trong trí não. Quan niệm về nghĩa từ của chúng tôi hoàn toàn phù hợp với quan điểm của A.A. Potebnja – nhà ngôn ngữ học và cũng là nhà tư tưởng Nga nổi tiếng ở thế kỉ XIX. A.A. Potebnja khẳng định:” Dùng lời không thể truyền đạt được ý nghĩ của mình cho người khác, mà chỉ có thể khơi dậy (chỗ nhấn mạnh là của chúng tôi – NĐT) cái ý nghĩ cá nhân trong con người đó” [23, 152]. Nhà triết học A.G. Spirkin cũng có ý kiến tương tự khi cho rằng:”Dùng lời nói chúng ta không truyền đạt mà là gây nên (chỗ nhấn mạnh là của chúng tôi – NĐT) những ý nghĩ tương tự trong đầu của người cảm nhận” [24, 216-217]. Sau này L. Wittgenstein đã chỉ rõ: “Mối tương quan giữa tên gọi và vật được gọi tên như sau: sự tri giác tên gọi bằng thính giác gây nên (chỗ nhấn mạnh là của chúng tôi – NĐT) trong tâm trí chúng ta hình ảnh của cái được gọi tên” [18, 95].

Bài HOT 👉  Tiểu sử về Lai Bâng liên quân mobile dành cho những ai chưa biết

Theo giáo sư V.M. Solncev, ý nghĩ của một con người, nếu nói đơn giản, là sự kết hợp các khái niệm, tức là ý nghĩa của từ. “Vỏ âm thanh” của từ được sử dụng để chỉ ra những ý nghĩa đó. Trong mỗi ngôn ngữ, một phát âm cụ thể (“vỏ âm thanh của từ”) có quy ước liên quan đến một ý nghĩa cụ thể (khái niệm). Thông thường, từ được coi là một đơn vị trong đó một ý nghĩa được gắn với một phát âm. Nếu nhiều người sử dụng cùng một ngôn ngữ (giao tiếp yêu cầu việc sử dụng một ngôn ngữ cụ thể), cùng một ý nghĩa (khái niệm) tồn tại trong đầu họ và liên quan đến cùng một phát âm. Do đó, nếu cá nhân A nói tiếng Nga và phát âm D-e-r-e-v-o tương ứng với ý nghĩa (hay khái niệm) cây, thì trong tất cả những người biết tiếng Nga, tổ hợp âm thanh này khơi dậy ý nghĩ về cây trong đầu họ (…). Nếu trong trường hợp nói tiếng Nga, không có ai hiểu một ngôn ngữ khác mà có ai đó phát âm tổ hợp âm tương ứng với ý cây, thì trong đầu người nghe không thể hình thành ý nghĩ về cây. Ví dụ: shu (tiếng Hán), Baum (tiếng Đức), tree (tiếng Anh), cây (tiếng Việt) v.V…(…). Chúng ta không “truyền đạt” ý nghĩ về cây cho người khác, mà là khơi dậy ý nghĩ cá nhân về cây trong đầu họ. Vì mỗi người có kinh nghiệm sống khác nhau, chuỗi âm D-e-r-e-v-o có thể tạo ra những biểu tượng khác nhau trong đầu người nghe so với đầu người nói” [6, 14-15]. Một tín hiệu, nếu được một người biết tiếng Nga nghe thấy, sẽ gợi lên ý nghĩ về cây trong đầu anh ta và đồng thời cho anh ta biết rằng ý nghĩ về cây đã xuất hiện trong đầu người nói.

Bài HOT 👉  ĐỘ MIXI là ai? Tiểu sử, đời tư streamer của Phùng Thanh Độ

Cách thức hoạt động của một hành vi thông báo đơn giản nhất là như sau. Khi giao tiếp, con người không sử dụng từng từ riêng lẻ để truyền đạt ý nghĩ, mà thay vào đó, họ sử dụng một chuỗi từ tương ứng với các hình thức khác nhau của ý nghĩ như phán đoán, suy luận và cùng với những trường hợp khác. Trên nguyên tắc, cơ chế này gợi lên các ý nghĩ tương ứng trong tâm trí của người nghe. Tuy nhiên, nó cũng phức tạp hơn rất nhiều.

(Xin nhấn vào mục “Quay lại” ở cuối trang này để xem tiếp phần 2 và phần 3).

Các bài viết khác

Style TV

Style TV là kênh truyền hình chuyên sâu về đề tài phong cách sống, phong cách tiêu dùng, giải trí.

Related Articles

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Back to top button